(0243) 943 9663 Địa chỉ: 39 Trần Hưng Đạo, Hàng Bài, Hoàn Kiếm, Hà Nội

Nông nghiệp hữu cơ – Những bước tiến vượt trội trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam (phần 4)

     Trước nhu cầu sử dụng sản phẩm sạch, an toàn cho sức khỏe của người tiêu dùng cũng như việc đảm bảo sự bền vững cho môi trường, nông nghiệp hữu cơ (NNHC) hiện đang trở thành xu hướng phát triển trên toàn thế giới. Trong thời gian qua, NNHC trên thế giới cũng như tại Việt Nam đều đang có xu hướng phát triển khá nhanh và ổn định trên nhiều lĩnh vực như nuôi trồng, sản xuất phân bón... Số quốc gia được công nhận có nền NNHC đang không ngừng tăng lên. Tính đến năm 2020 có 186/204 quốc gia và vùng lãnh thổ được IFOAM công nhận là có một bộ phận nhất định nền nông nghiệp được sản xuất theo hướng hữu cơ. Việt Nam là một trong số 100 nước đầu tiên được quốc tế công nhận là nước có sản xuất NNHC. Từ năm 1985, Việt Nam bắt đầu xuất hiện các mô hình sản xuất NNHC khi mà một số tổ chức phi chính phủ nước ngoài đến nước ta nghiên cứu và đầu tư các dự án sản xuất hữu cơ. Năm 2018, tổng thị trường sản phẩm hữu cơ của Việt Nam đạt gần 400 triệu USD, đứng thứ 59 thế giới. Việt Nam có 60 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sản phẩm hữu cơ với kim ngạch khoảng 335 triệu USD/năm, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam đã xuất khẩu đi 180 nước trên thế giới.
     Năm 2020, tổng diện tích đất hữu cơ trên toàn thế giới đạt 76,6 triệu ha, chiếm 1,7% diện tích đất nông nghiệp. Việt Nam xếp thứ 32 thế giới với 237,7 nghìn ha đất hữu cơ (chiếm khoảng 1,1% tổng diện tích đất nông nghiệp), xếp thứ 2 Đông Nam Á sau Indonesia. Tỷ lệ tăng trưởng diện tích hữu cơ toàn thế giới giai đoạn 2015 - 2020 ước đạt 3,05% (dữ liệu từ 186 quốc gia). Việt Nam là một trong bốn quốc gia dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng đất hữu cơ, năm 2016 Việt Nam mới chỉ có 53,35 nghìn ha, đến năm 2020 đã đạt 237,7 nghìn ha, tăng hơn 3 lần so với năm 2016. Cùng đó, số lượng đơn vị, cá nhân tham gia NNHC ngày càng tăng, toàn thế giới có 3,1 triệu người tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ, trong đó châu Á chiếm 47%, châu Phi 28%, châu Âu 8%...

 
Hình ảnh diện tích đất nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam giai đoạn 2012 -2019

     Xu hướng chuyển từ nền nông nghiệp hóa chất sang nền nông nghiệp xanh, hữu cơ là tất yếu trước nhu cầu sử dụng thực phẩm sạch của người tiêu dùng. NNHC với việc không sử dụng hóa chất trong quá trình sản xuất đã đảm bảo được sự an toàn của các sản phẩm nông nghiệp với sức khỏe con người. Không chỉ thế, NNHC còn là phương thức sản xuất đảm bảo sự an toàn cho môi trường và hệ sinh thái tự nhiên. Tại Việt Nam, theo số liệu của Bộ NN&PTNT, cả nước có trên 200 hợp tác xã, 97 doanh nghiệp tham gia sản xuất NNHC, thu hút khoảng 25.000 lao động. Ngoài ra, có 17.168 nông dân tự sản xuất theo hướng hữu cơ. Hiện có 40 tỉnh, thành có trồng trọt hữu cơ với các cây trồng chủ yếu cây ăn quả, rau, chè..., 15 tỉnh có chăn nuôi heo hữu với quy mô 75 ngàn con, 9 tỉnh có chăn nuôi gà hữu cơ với quy mô trên 500 nghìn con, 4 tỉnh có chăn nuôi bò hữu cơ với khoảng gần 5.000 con. Một số mô hình sản xuất nông nghiệp tiêu biểu tại Việt Nam có thể được liệt kê như sau:
1. Mô hình Organica khởi nghiệp của chị Phạm Thị Phương Thảo:
Từ năm 2013 chỉ với một cửa hàng kinh doanh thực phẩm hữu cơ rộng 20 m2 trên đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3, TP HCM đến nay, Organica đã có 5 cửa hàng tại TP HCM và Đà Nẵng, Hà Nội với 10 trang trại gồm đầu tư trực tiếp và liên kết canh tác rau củ quả có chứng nhận hữu cơ Mỹ, châu Âu (EU) hoặc đang trong quá trình chuyển đổi để lấy chứng nhận.
2. Mô hình nông nghiệp hữu cơ Biophap tại Kon Tum và Gia Lai:
Mô hình được thành lập vào năm 2015 bởi Tyna Giang và bộ đôi kỹ sư Marc Binet – Alexis Tavernier. Sau 3 năm startup nông nghiệp hữu cơ Biophap do Tyna Giang đồng sáng lập đã có 5 trang trại với diện tích 50 ha tại hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai, chuyên cung cấp trái cây tươi, gia vị và dược liệu.
3. Mô hình vườn rau của mẹ được sáng lập bởi một bà mẹ trẻ tuổi 30 tên gọi Bùi Thị Kim Thoa:
Mô hình xuất phát từ việc đảm bảo một nguồn thực phẩm sạch cho con khi sinh em bé của chị Bùi Thị Kim Thoa. Hiện nay, Bùi Thị Kim Thoa có ruộng lúa ở Đắk Nông, hai vườn rau ở Đà Lạt, Hóc Môn và một vườn trái cây ở Bình Dương. Hành trình trồng rau của chị Thoa cũng lắm gian nan, nhất là năm đầu phải cải tạo đất bị thoái hóa do tồn dư chất hóa học, có vườn đầu tư 300 triệu đồng để rồi gần như không thu được gì ở vụ đầu. Nhưng dần nhận được sự tin tưởng từ người tiêu dùng, đến nay Vườn rau của mẹ đã và đang cung cấp nguồn thực phẩm chất lượng cho rất nhiều gia đình.
4. Mô hình chăn nuôi nuôi lợn theo hướng hữu cơ của tập đoàn Quế Lâm ở xã Đạo Đức, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc:
Mô hình nuôi lợn trên nền đệm lót sinh học trong chuồng thông thoáng tự nhiên; sử dụng các chế phẩm sinh học phối trộn vào thức ăn, nước uống, đệm lót và phun sương. Chất thải của lợn được xử lý bởi các vi sinh vật có trong đệm lót nên chuồng nuôi không có mùi hôi, đàn lợn khỏe mạnh, ít xảy ra dịch bệnh.
5. Mô hình sản xuất thanh long theo hướng hữu cơ của chị Trần Thị Hòa tại xã Ngọc Mỹ, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc:
Tại đây, vườn thanh long ruột đỏ có 4.000 trụ biệt lập, đảm bảo cách ly; sản xuất theo hướng hữu cơ, chỉ dùng phân chuồng hoai mục bón cây, không sử dụng các hóa chất bảo vệ thực vật nên chất lượng quả đảm bảo, được người tiêu dùng ưa chuộng. Chủ hộ cho biết rất nhiều khách nước ngoài từ Sing-ga-po, Đài Loan, Nam Phi, Mỹ… đã đến thăm vườn và đặt hàng nhưng sản lượng của vườn chưa đủ đáp ứng theo đơn đặt hàng.
6. Mô hình sản xuất chè theo hướng hữu cơ của Hợp tác xã sản xuất chè Hảo Đạt tại xã Tân Cương, huyện Tân Cương, Thái Nguyên:
Các thành viên trong hợp tác xã tuân thủ việc trồng chè theo tiêu chuẩn VietGAP, truy suất nguồn gốc từ cây giống, nguyên liệu đầu vào, quy trình sản xuất, thu hái, chế biến, đóng gói và tiêu thụ sản phẩm. Hợp tác xã đã tạo ra sản phẩm có thương hiệu, được người tiêu dùng ưa chuộng.
     Ngoài ra, còn nhiều mô hình khác nữa gồm: mô hình sản xuất lúa theo hướng hữu cơ do tập đoàn Quế Lâm triển khai tại xã Tân Phong, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc; mô hình sản xuất rau theo hướng hữu cơ tại xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc; mô hình sản xuất chè Shan Tuyết theo hướng hữu cơ tại xã Hồng Thái, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang; mô hình sản xuất lúa nếp Thầu Dầu theo hướng hữu cơ tại xã Úc Kỳ, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên; mô hình chăn nuôi vịt siêu thịt an toàn, hiệu quả tại Đồng Nai; mô hình nuôi tôm trên bể nổi di động tại Quảng Ninh; mô hình nuôi dê sinh sản hướng thịt cho người dân miền núi tỉnh Phú Thọ; mô hình sản xuất giống lúa Bắc thơm 7 và TBR 225 kháng bạc lá tại Hà Nam...
     Là nước nông nghiệp truyền thống, Việt Nam có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển NNHC. Với đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều nên việc sản xuất ra các loại sinh khối phục vụ cho sản xuất NNHC được thực hiện khá nhanh, các chu trình chuyển hóa vật chất diễn ra với tốc độ cao, các chất hữu cơ cao phân tử sau một thời gian xử lý nhanh chóng trở thành các chất khoáng đơn giản cung cấp cho cây trồng hữu cơ. Diện tích đất tự nhiên phần lớn canh tác quảng canh, chưa bị ảnh hưởng của ô nhiễm hóa chất, rất thuận lợi khi chuyển sang sản xuất hữu cơ cho tất cả các lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản. Cùng với đó, lĩnh vực công nghệ sinh học ở nước ta đang phát triển mạnh trong vài năm gần đây, hỗ trợ tích cực cho NNHC như sản xuất phân bón hữu cơ sinh học, các chế phẩm xử lý môi trường đất, nước và nhiều chế phẩm vi sinh, thuốc thảo mộc có thể thay thế thuốc hóa học trong bảo vệ thực vật. Mặc dù vậy, sản xuất NNHC vẫn còn gặp nhiều khó khăn về đầu ra của sản phẩm, tiền vốn, công tác kiểm định, chứng nhận chất lượng sản phẩm chưa được quan tâm … Do vậy cần có các biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ bền vững, tiến tới nhân rộng các mô hình nông nghiệp hữu cơ hiệu quả cao tại Việt Nam.

 

Tin tức liên quan khác

Đối tác
(0243) 943 9663