Trong tình hình mới, Việt Nam đang chú trọng đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để phát triển kinh tế đổi mới và xây dựng một đất nước văn minh, hiện đại và phát triển bền vững.
Để thực hiện điều đó, Chiến lược, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 đã đặt ra 9 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo:
Một là, đổi mới cơ chế hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo , nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo;
Hai là, xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.
Ba là, thu hút, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Bốn là, phát triển các viện nghiên cứu, trường đại học và các tổ chức khoa học - công nghệ trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh.
Năm là, phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo có trình độ và năng lực sáng tạo cao.
Sáu là, phát triển và khai thác có hiệu quả hạ tầng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Bảy là, thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp.
Tám là, chủ động đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Cuối cùng, tăng cường các hoạt động tôn vinh, truyền thông, nâng cao nhận thức về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình và chính sách hỗ trợ cho hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, đặc biệt là trong các lĩnh vực chủ chốt như thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, thông tin liên lạc, lưu trữ dữ liệu, năng lượng tái tạo, đô thị thông minh, và chăm sóc sức khỏe. Trong những năm gần đây, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã góp phần quan trọng trong xây dựng, phát triển giá trị văn hóa, xã hội, con người Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước; đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì hơn 0,7. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) không ngừng được cải thiện, thuộc nhóm 40 quốc gia hàng đầu thế giới.
Đến năm 2025, đầu tư cho khoa học và công nghệ đạt 1,2-1,5% GDP, trong đó, tổng chi quốc gia cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 0,8-1% GDP và đóng góp của xã hội cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ chiếm 60-65%. Đến năm 2030, đầu tư cho khoa học và công nghệ đạt 1,5-2% GDP, trong đó tổng chi quốc gia cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 1-1,2% và đóng góp của xã hội cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ chiếm 65-70%.
Đến năm 2025, nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 10 người trên một vạn dân, đến năm 2030 đạt 12 người trên một vạn dân; trong đó, chú trọng phát triển nhân lực trong khu vực doanh nghiệp. Đến năm 2025, có 25 đến 30 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới, đến năm 2030 có 40 đến 50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới.
Đến năm 2030, số doanh nghiệp đạt tiêu chí doanh nghiệp khoa học và công nghệ và số doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tăng hai lần so với năm 2020; tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt 40% trong tổng số doanh nghiệp...
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang nhắm đến việc phát triển các khu công nghệ cao và xúc tiến đầu tư vào các công ty startup hàng đầu. Sự khuyến khích và hỗ trợ của chính phủ đã thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư với nhiều dự án đổi mới sáng tạo lớn được triển khai tại Việt Nam trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, còn nhiều thách thức và vướng mắc cần được giải quyết trong việc phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, bao gồm cải thiện hệ thống giáo dục, thúc đẩy sự hợp tác giữa đại học và các doanh nghiệp, và đảm bảo bảo vệ sáng chế và quyền lợi trí tuệ của các doanh nghiệp.
Để thực hiện điều đó, Chiến lược, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 đã đặt ra 9 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo:
Một là, đổi mới cơ chế hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo , nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo;
Hai là, xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.
Ba là, thu hút, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Bốn là, phát triển các viện nghiên cứu, trường đại học và các tổ chức khoa học - công nghệ trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh.
Năm là, phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo có trình độ và năng lực sáng tạo cao.
Sáu là, phát triển và khai thác có hiệu quả hạ tầng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Bảy là, thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp.
Tám là, chủ động đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Cuối cùng, tăng cường các hoạt động tôn vinh, truyền thông, nâng cao nhận thức về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình và chính sách hỗ trợ cho hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, đặc biệt là trong các lĩnh vực chủ chốt như thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, thông tin liên lạc, lưu trữ dữ liệu, năng lượng tái tạo, đô thị thông minh, và chăm sóc sức khỏe. Trong những năm gần đây, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã góp phần quan trọng trong xây dựng, phát triển giá trị văn hóa, xã hội, con người Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước; đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì hơn 0,7. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) không ngừng được cải thiện, thuộc nhóm 40 quốc gia hàng đầu thế giới.
Đến năm 2025, đầu tư cho khoa học và công nghệ đạt 1,2-1,5% GDP, trong đó, tổng chi quốc gia cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 0,8-1% GDP và đóng góp của xã hội cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ chiếm 60-65%. Đến năm 2030, đầu tư cho khoa học và công nghệ đạt 1,5-2% GDP, trong đó tổng chi quốc gia cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 1-1,2% và đóng góp của xã hội cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ chiếm 65-70%.
Đến năm 2025, nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 10 người trên một vạn dân, đến năm 2030 đạt 12 người trên một vạn dân; trong đó, chú trọng phát triển nhân lực trong khu vực doanh nghiệp. Đến năm 2025, có 25 đến 30 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới, đến năm 2030 có 40 đến 50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới.
Đến năm 2030, số doanh nghiệp đạt tiêu chí doanh nghiệp khoa học và công nghệ và số doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tăng hai lần so với năm 2020; tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt 40% trong tổng số doanh nghiệp...
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang nhắm đến việc phát triển các khu công nghệ cao và xúc tiến đầu tư vào các công ty startup hàng đầu. Sự khuyến khích và hỗ trợ của chính phủ đã thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư với nhiều dự án đổi mới sáng tạo lớn được triển khai tại Việt Nam trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, còn nhiều thách thức và vướng mắc cần được giải quyết trong việc phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, bao gồm cải thiện hệ thống giáo dục, thúc đẩy sự hợp tác giữa đại học và các doanh nghiệp, và đảm bảo bảo vệ sáng chế và quyền lợi trí tuệ của các doanh nghiệp.