Quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta đóng vai trò rất quan trọng, quyết định sự phát triển khoa học - công nghệ của nước nhà, đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, củng cố nền quốc phòng của đất nước. Quản lý tốt khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) đã tạo điều kiện thuận lợi trong quản lý hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ, phục vụ cải cách hành chính và phát triển kinh tế - xã hội.
Việc ứng dụng CNTT tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quản lý hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ như sau:
- Giảm bớt các đầu mối trung gian, giúp người dân và doanh nghiệp có thể dễ dàng tra cứu, truy cập dữ liệu đề tài theo tiêu chí phân loại mới nhất, thúc đẩy hoạt động hỗ trợ thương mại hoá sáng chế.
- Thực hiện quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học, bảo đảm sự chỉ đạo tập trung, đảm bảo tính độc lập, sáng tạo của từng cơ sở nghiên cứu, từng nhà khoa học trong mối quan hệ hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
- Hỗ trợ cá nhân, tổ chức đăng ký đề tài qua mạng.
- Phục vụ việc tổng hợp, báo cáo định kì, hàng năm…
- Phục vụ việc theo dõi, triển khai, nghiệm thu và đánh giá đề tài.
- Phục vụ việc tổng hợp, báo cáo định kì hoặc đột xuất theo một số tiêu chí lựa chọn hoặc yêu cầu của các cấp quản lí.
Hạn chế còn tồn tại của ứng dụng CNTT trong quản lý hoạt động khoa học công nghệ:
- Thiếu nhân lực cho hoạt động ứng dụng CNTT trong quản lý hoạt động khoa học công nghệ;
- Thiếu kinh phí cho ứng dụng CNTT quản lý và duy tu, bảo dưỡng hệ thống thông tin quản lý.
Từ những lý do trên, thiết nghĩ việc ứng dụng CNTT trong quản lý khoa học tại các đơn vị là việc làm quan trọng và rất cần sự quan tâm đồng bộ của các cấp.
Việc ứng dụng CNTT tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quản lý hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ như sau:
- Giảm bớt các đầu mối trung gian, giúp người dân và doanh nghiệp có thể dễ dàng tra cứu, truy cập dữ liệu đề tài theo tiêu chí phân loại mới nhất, thúc đẩy hoạt động hỗ trợ thương mại hoá sáng chế.
- Thực hiện quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học, bảo đảm sự chỉ đạo tập trung, đảm bảo tính độc lập, sáng tạo của từng cơ sở nghiên cứu, từng nhà khoa học trong mối quan hệ hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
- Hỗ trợ cá nhân, tổ chức đăng ký đề tài qua mạng.
- Phục vụ việc tổng hợp, báo cáo định kì, hàng năm…
- Phục vụ việc theo dõi, triển khai, nghiệm thu và đánh giá đề tài.
- Phục vụ việc tổng hợp, báo cáo định kì hoặc đột xuất theo một số tiêu chí lựa chọn hoặc yêu cầu của các cấp quản lí.
Hạn chế còn tồn tại của ứng dụng CNTT trong quản lý hoạt động khoa học công nghệ:
- Thiếu nhân lực cho hoạt động ứng dụng CNTT trong quản lý hoạt động khoa học công nghệ;
- Thiếu kinh phí cho ứng dụng CNTT quản lý và duy tu, bảo dưỡng hệ thống thông tin quản lý.
Từ những lý do trên, thiết nghĩ việc ứng dụng CNTT trong quản lý khoa học tại các đơn vị là việc làm quan trọng và rất cần sự quan tâm đồng bộ của các cấp.
Nguồn: Văn phòng Viện Nghiên cứu sáng chế và Khai thác công nghệ./.